Page 474 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 474
CÁC BIÊN PHÁP ĐIỂU TRỊ ĐAU ĐẨU
mạch máu não nguy hại (rất nặng) và không nguy hại tới
3 năm.
Công trình nghiên cứu kết hợp Canada-Mỹ của các
tác giả Gent M.,Blakely J. A.,... (1989), dựa trên đối
tượng 1072 bệnh nhân tai biến mạch máu nặng, vối liều
lượng ticlopidin hai lần 250 mg một ngày. Kết quả thu
được là: tử vong 15,3%/năm do nhồi máu cơ tim và tai
biến mạch máu não đối với nhóm đối chứng placebo, còn
đôi với nhóm dùng ticlopidin là 10,8%.
Nhưng tác dụng phụ của ticlopidin lại rất nghiêm
trọng, thường xảy ra trong 3 tháng sau khi bắt đầu dùng
ticlopidin những rối loạn về máu: giảm bạch cầu nghiêm
trọng 0,8 - 0,9% bệnh nhân, ban xuất huyết, giảm tiểu
cầu vối tỷ lệ tử vong có thể tới 33%.
Tóm lại: dựa trên các kết quả nghiên cứu trên đây,
người ta khuyên chỉ nên dùng ticlopidin đối vối trường
hợp không dung nạp aspirin vì những tác dụng phụ về
máu đáng sợ.
C lopidogrel
Clopidogrel là một dẫn chất mới của họ các
thienopyridin mà về hoá học nó có vị trí gần gũi với
ticlopidin và đã được đưa vào sử dụng lần đầu tiên vào
năm 1987.
Clopidogrel chẹn sự hoạt hoá của các tiểu cầu bởi
ADP, từ đó, clopidogrel ức chế có chọn lọc và theo một
chiều (không quay trở lại) sự liên kết giữa ADP với thụ
cảm thê của chính nó trên các tiểu cầu và glycoprotein
Hb/IIIa, dẫn tới ức chế sự liên kết thụ cảm thể này với
íĩbrinogen.
Tác dụng chông ngưng kết tiểu cầu của clopidogrel có
hiệu lực hơn ticlopidin: một liều độc nhất 75 mg/ngày
cũng có hiệu quả bằng 250 mg X 2 lần/ngày ticlopidin.
474

