Kỷ niệm 112 năm Ngày sinh đồng chí Chu Huy Mân (17/3/1913 – 17/3/2025)
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền:
KỶ NIỆM 112 NĂM NGÀY SINH ĐỒNG CHÍ CHU HUY MÂN
(17/3/1913 – 17/3/2025)
- Tiểu sử Đại tướng Chu Huy Mân
- [Infographics] Đại tướng Chu Huy Mân: Nhà lãnh đạo quân sự – chính trị toàn diện
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với tướng Chu Huy Mân – Hai Mạnh
- Đại tướng Chu Huy Mân – vị tướng đắc nhân tâm
- [Photo] Đại tướng Chu Huy Mân: Nhà chính trị, quân sự tài ba, có tầm chiến lược
- Giới thiệu Sách: Một vài tài liệu về Đại tướng Chu Huy Mân có tại Thư viện tỉnh Bình Thuận
—————————————————————————-
TIỂU SỬ ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN

(Chu Văn Điều)
(1913 – 2006)
Quê quán: xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Tham gia cách mạng: 1929
Nhập ngũ: 1945
Cấp bậc: Đại tướng (1980)
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: từ năm 1930.
Quá trình công tác
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Chu Huy Mân đã nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam;
1940: bị thực dân Pháp đưa đi an trí ở Đắc Lay, Đắc Tô, Kon Tum;
1943: đồng chí vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng;
Trong Cách mạng tháng Tám 1945, đồng chí tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Quảng Nam và giữ các chức vụ Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên Chi bộ Quảng Nam;
1945 – 1951: Chủ tịch Ban quân khu C (gồm 4 tỉnh Trung bộ), Chính trị viên Mặt trận Đường 9, Tham mưu Chủ nhiệm Liên khu 4, Trung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn;
1951 – 1954: Phó Chính ủy, Chính ủy Đại đoàn 316;
1954 – 1963: Đoàn trưởng Đoàn 100 (đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào); Chính ủy Quân khu 4, Chính ủy Quân khu Tây Bắc; Tổng Cố vấn Việt Nam cho Chính phủ Liên hiệp Lào của Thủ tướng Xuvana Phuma;
1964 – 1965: Chính ủy Quân khu 5;
1965 – 1967: Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, chỉ huy các chiến dịch: Plây Me (1965), Sa Thầy (1966);
1967 – 1976: Tư lệnh, kiêm Chính ủy Quân khu 5 (1975); Chính ủy Chiến dịch Đà Nẵng (28 – 29/3/1975);
1977 – 1986: Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương);
1981 – 1986: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước;
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa II – V;
Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV – V;
Đại biểu Quốc hội khóa II, IV, VII.
Phần thưởng cao quí
– 01 Huân chương Sao vàng;
– 01 Huân chương Hồ Chí Minh;
– 03 Huân chương Quân công (01 hạng Nhất, 02 hạng Nhì);
– 02 Huân chương Chiến công (01 hạng Nhất, 01 hạng Nhì);
– 01 Huân chương Chiến thắng hạng Nhất…
—————————————————————————-
[INFOGRAPHICS] ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN: NHÀ LÃNH ĐẠO QUÂN SỰ – CHÍNH TRỊ TOÀN DIỆN
—————————————————————————-
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI TƯỚNG CHU HUY MÂN – HAI MẠNH
1. Đôi nét về vị tướng được Bác Hồ đặt tên
Về tên gọi Hai Mạnh của mình, Đại tướng Chu Huy Mân kể rằng: Tháng 6/1967, khi đang là Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, phát hiện tôi có vấn đề ở gan bác sỹ yêu cầu tôi phải ra Bắc kiểm tra, đồng thời tôi báo cáo với Trung ương tình hình chiến trường. Tôi ra đến Hà Nội thì thời điểm ấy Bác Hồ đang ở Quảng Châu điều trị bệnh. Đến đầu tháng 7/1967, Bác cho gọi tôi đến gặp Bác ở nhà sàn, Người yêu cầu: Chú Mân báo cáo tình hình và công việc ở Tây Nguyên cho Bác nghe. Ba năm không được gặp, nhìn Bác không được khỏe, trong lòng tôi thấy trào dâng xúc động, nghẹn ngào. Bác nhắc: Chú cứ bình tĩnh nói đi. Tôi cố trấn tĩnh và báo cáo. Nghe xong, Bác dặn: Chú ở Tây Nguyên làm cả nhiệm vụ chỉ huy và công tác chính trị, chú chịu khó gánh cả hai vai cho khỏe. Chú cố gắng khôi phục sức khỏe, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Về Tây Nguyên, tôi chuyển lời Bác hỏi thăm bộ đội, cán bộ địa phương, đồng bào các dân tộc, kể chuyện được gặp và báo cáo Bác, nhắc lại lời dặn của Bác. Anh Quế thư ký nghe xong thì nói: Anh nên đổi bí danh là Hai Mạnh vì đó là gợi ý của Bác. Từ đó tôi dùng tên Hai Mạnh khi làm việc, dần thân thuộc, gắn bó với cán bộ, chiến sỹ, đồng bào ở Khu V.
Đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tên thật là Chu Văn Điều, sinh ngày 17/3/1913 tại xã Yên Lưu, tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hòa, Thành phố Vinh). Ông tham gia cách mạng từ năm 1929 khi mới 16 tuổi và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1930. Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ông tham gia Tự vệ Đỏ và là Đội phó tự vệ của xã, sau đó là Bí thư chi bộ xã (năm 1933), Bí thư phân huyện ủy huyện Hưng Nguyên, Nghệ An (năm 1936). Từ 1937 – 1943, Chu Văn Điều bị chính quyền thực dân bắt nhiều lần, giam ở Nhà lao Vinh, bị đưa an trí, lao động khổ sai tại nhà Ngục Đăk Glei, Buôn Mê Thuột… Năm 1943, chi bộ nhà tù tổ chức vượt ngục thành công, bốn người trong đó có Chu Văn Điều trở lại với phong trào. Ông tham gia Ban Vận động Việt Minh và Tỉnh ủy Quảng Nam, tổ chức vận động tập hợp quần chúng, xây dựng phát triển lực lượng, tham gia chỉ đạo khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi ở Quảng Nam và được phân công giữ trọng trách Phó Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 9/1945, ông vào quân đội, là Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam. Cuối 1945, Trung ương điều Chu Huy Mân giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Quân chính Khu C gồm 4 tỉnh Bắc Trung Bộ, Chính trị viên Mặt trận Đường 9 Đông Hà – Xavanakhệt. Cuối năm 1946, đồng chí Chu Huy Mân được điều ra miền Bắc, giữ chức vụ Trưởng ban kiểm tra xây dựng Đảng Quân khu ủy Việt Bắc. Từ cuối 1947 đến 1954, Chu Huy Mân là Trung đoàn trưởng, Bí thư Trung đoàn ủy các Trung đoàn 72, Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 174 Cao- Bắc- Lạng tham gia chiến đấu và giành thắng lợi ở chiến dịch Việt Bắc (1947), Thập vạn đại sơn (1949), Biên giới (1950)… Trên cương vị Chính ủy, Bí thư Đảng đoàn Đại đoàn 316, ông tham gia nhiều chiến dịch, đánh thắng nhiều trận quan trọng, trong đó trận mở đầu tiêu diệt căn cứ Him Lam, trận đồi A1, C1, C2… góp sức tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Từ 1954 đến 1961, Chu Huy Mân hai lần được cử làm Đoàn trưởng, Bí thư Đảng ủy Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào (1954 và 1960), hai lần làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu IV (1957, 1961), Bí thư Khu ủy, Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu Tây Bắc (1958)… Sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo sỹ quan cao cấp tại Học viện quân sự Prunde (Liên Xô), từ tháng 9/1963 đồng chí được cử vào chiến trường Khu V, lần lượt đảm trách các chức vụ: Phó Bí thư Khu ủy, Bí thư Quân khu ủy, Chính ủy Quân Khu V (4/1964 – 8/1965); Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận B3 – Tây Nguyên (9/1965 – 7/1967); Phó Bí thư Khu ủy V, Phó Bí thư Quân khu ủy, Tư lệnh Quân khu V (8/1967 – 11/1975). Tên tuổi của ông gắn với những trận thắng ở Ba Gia, Plâyme – Ia Đrăng (1965), Sa Thầy (1966),…, vang dội khắp chiến trường và đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào bài thơ chúc Tết của Người năm 1966:“ Mừng miền Nam rực rỡ chiến công/ Nhiều Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Plâyme, Đà Nẵng”. Đồng chí Chu Huy Mân là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa III, IV,V; Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V và là đại biểu Quốc hội các khóa II, IV, VII. Ghi nhận những cống hiến của Đại tướng Chu Huy Mân, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội đã trao tặng đồng chí: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều Huân, huy chương khác. Ngày 01/7/2006, Đại tướng Chu Huy Mân từ trần tại Hà Nội, thượng thọ 93 tuổi.
2. Tướng Hai Mạnh – Chu Huy Mân và những ký ức về Bác kính yêu
Là chỉ huy trực tiếp lãnh đạo các đơn vị chủ lực tác chiến trên chiến trường song đồng chí Chu Huy Mân lại có may mắn rất nhiều lần được đến “ Phủ Chủ tịch” ở Việt Bắc, ở Hà Nội để báo cáo, nhận chỉ thị trực tiếp từ Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị thống lĩnh tối cao của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Theo thống kê sơ bộ từ các nguồn tài liệu tin cậy, tính từ lần gặp đầu tiên tháng 3/1950 đến lần gặp cuối cùng tháng 7/1967, ít nhất 14 lần(1) đồng chí Chu Huy Mân đã trực tiếp làm việc, báo cáo, nhận chỉ thị từ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có ít nhất có bốn lần diễn ra tại nơi ở và làm việc của Người tại Phủ Chủ tịch các năm 1957 và 1967. Yêu kính Bác, tướng Hai Mạnh – Chu Huy Mân đã khắc sâu từng chi tiết mỗi lần gặp và tự nhắc mình luôn cố gắng thực hiện tốt lời chỉ dặn của Người. Quý mến, tin tưởng người cán bộ kiên cường, bất khuất, suốt đời trung thành tận tụy với nước, với dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm, tin tưởng trao những trọng trách và dành những tình cảm đặc biệt cho Chu Huy Mân. Trong nội dung bài viết này, dựa theo hồi ức của Đại tướng Chu Huy Mân, chúng tôi bước đầu thông tin đến bạn đọc một vài sự kiện cụ thể như sau:
Lần đầu tiên tướng Hai Mạnh được gặp Bác: Đại tướng Chu Huy Mân kể: “Khi Bác đi Liên Xô về, tôi (Chu Huy Mân – BT) được lệnh cùng anh Hoàng Tiêu Sơn, Trưởng ban Chính trị trung đoàn đến Pò Peo (Trùng Khánh sát Tĩnh Tây) đón Bác… Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy Bác. Khó nói hết được niềm vui khi được trông thấy Người. Đêm hôm đó, Bác nghỉ trong cơ quan huyện ủy do Trung đoàn 174 bảo vệ”(2). Theo hành trình chuyến công du bí mật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Liên Xô, Trung Quốc đầu năm 1950 cho thấy: Chiều 02/01/1950, Bác Hồ từ ATK Tuyên Quang đi theo hướng tới cửa khẩu biên giới Trùng Khánh, Cao Bằng. Cùng đi với Bác có 8 người là các đồng chí: Trần Đăng Ninh(3), Ngô Vi Thiện(4), Phạm Văn Khoa(5) – phiên dịch, Lê Văn Chánh – bác sĩ, Lâm Kính – trợ lý kiêm phiên dịch, Lê Phát và đồng chí Nhiệm vận hành máy vô tuyến, đồng chí Nhật là bảo vệ. Sau hơn ba tháng, chuyến công du bí mật đã đạt được những mục tiêu đề ra: Thiết lập chính thức, công khai quan hệ ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và bạn bè quốc tế nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đồng thời đưa cách mạng Việt Nam hòa nhập với trào lưu phát triển của thời đại… Ngày 19/3/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đoàn tùy tùng về đến Việt Nam.
Lời kể của Đại tướng Chu Huy Mân không chỉ giúp chúng ta biết về thời khắc ông vinh dự được gặp Bác kính yêu lần đầu tiên mà còn giúp chúng ta hôm nay có cơ sở để xác định địa điểm trụ sở Huyện ủy Trùng Khánh, Cao Bằng là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn công tác đã nghỉ lại vào đêm 19/3/1950 trên đường trở lại ATK Tân Trào.
Chuyện về bức ảnh Chu Huy Mânm và đồng đội lần đầu tiên được chụp cùng với Bác. Tháng 6/1950, Bác Hồ và Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận định và đề ra chiến lược của ta lúc này là phải mở một chiến dịch quân sự nhằm phá âm mưu phong tỏa biên giới phía Bắc của quân Pháp, mở đường giao lưu giữa nước ta với các nước anh em để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Ngày 27/7/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Cao Bắc Lạng (Chiến dịch Biên giới- BT) và cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam làm Bí thư Đảng ủy mặt trận, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Chiến dịch, cử cán bộ chủ chốt của Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp trực tiếp làm Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm chính trị và Chủ nhiệm cung cấp. Lực lượng tham gia chiến dịch là các đơn vị chủ lực, trong đó có Trung đoàn 174 do đồng chí Chu Huy Mân là Chính ủy. Tại Hội nghị Quốc phòng ngày 02/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này”. Tiếp đó, đầu tháng 9, Bác Hồ đã lên đường ra mặt trận để trực tiếp chỉ đạo, theo dõi và động viên các lực lượng tham gia Chiến dịch. Hình ảnh Bác bên các chiến sỹ đã trở thành nguồn động viên mạnh mẽ, lan truyền trong sâu thẳm trong toàn thể những người lính đi chiến dịch.
Đồng chí Chu Huy Mân nhớ lại: Sau cuộc họp ở Quảng Uyên, Bác đã cùng các đồng chí tham gia cuộc họp của Bộ chỉ huy Chiến dịch chụp bức ảnh kỷ niệm này. Tôi vinh dự được đứng kề bên phía tay phải của Bác. Bên kia là anh Võ Nguyên Giáp Tổng tư lệnh. Đây là lần đầu tiên, tôi và một số đồng đội là cán bộ chủ chốt của Trung đoàn 174 được chụp ảnh với Bác. Hôm đó trời nắng rất đẹp.
Bác Hồ tặng tướng Hai Mạnh chiếc đồng hồ Wyler. Năm 1994, trong một lần làm việc, Đại tướng Chu Huy Mân kể với cán bộ làm công tác sưu tầm của Đoàn chuyên gia Bảo tàng Hồ Chí Minh giúp Lào xây dựng Bảo tàng Kaysone Phomvihane về chiếc đồng hồ Bác đã tặng khi hoàn thành nhiệm vụ ở Lào. Ông kể: Theo đề nghị của Chính phủ Kháng chiến và Bộ trưởng Quốc phòng Lào lúc đó là đồng chí Kaysone Phomvihane, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Thường vụ BCH Trung ương, Phó Bí thư Tổng Quân ủy, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Trung ương Đảng ký và công bố Quyết định thành lập Đoàn Cố vấn Quân sự Việt Nam có nhiệm vụ giúp cách mạng Lào trong tình hình mới. Ngày 16/7/1954, Đoàn 100 (tên gọi Đoàn theo con số đúng 100 cán bộ, chiến sỹ thành viên của đơn vị, theo lời giải thích Đại tướng Chu Huy Mân) được thành lập, tôi (Chu Huy Mân-BT) khi đó đang là Chính ủy Đại đoàn 316 được cử làm Trưởng đoàn cố vấn quân sự kiêm Bí thư Đảng ủy Đoàn 100 sang giúp quân đội Pathet Lào ở ba cấp: Bộ Quốc phòng, Nhà trường và các đơn vị, địa phương theo tinh thần chỉ đạo của Bác: Giúp bạn là mình tự giúp mình. Tháng 5/1957, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ về nước. Cũng trong tháng 5/1957, trong buổi lên gặp báo cáo Bác Hồ về kết quả công tác Lào đồng thời đi nhận nhiệm vụ mới Chính ủy Quân Khu IV, ngay tại Nhà 54, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen và thưởng tặng đồng chí Chu Huy Mân chiếc đồng hồ vốn là quà tặng của bạn bè quốc tế tặng Bác. Điều đặc biệt để khẳng định đây là đồng hồ do Bác tặng là ở mặt sau có khắc 4 chữ “ Hồ Chí Minh tặng” chữ Hán. Cho đến nay, đây là một trong ba chiếc đồng hồ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho ba cán bộ quân đội là Đại tướng Chu Huy Mân, đồng chí Nguyễn Chánh(6) – Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ và đồng chí Nguyễn Bá Phát(7) – Cục trưởng Cục bờ biển. Được biết, ngày 08/8/1989, Đại tướng Chu Huy Mân đã chuyển giao cho Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) lưu giữ phục vụ công tác nghiên cứu và tuyên truyền. Đây sẽ mãi mãi là một trong những kỷ vật quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng tướng Chu Huy Mân, một trong những vị tướng dũng cảm, mưu lược và quyết đoán, một tấm gương sáng ngời của người cộng sản kiên cường, suốt đời trung thành tận tụy với nước với dân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Lần cuối cùng, tướng Hai Mạnh được gặp Bác. Đó là vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4/1969. Trước đó, Quân ủy Trung ương triệu tập chỉ huy các chiến trường ra Hà Nội bàn về tình hình nhiệm vụ ở miền Nam trước những diễn biến mới khi chính quyền Mỹ có những dịch chuyển mang tính chiến lược trong triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và Hội nghị 4 bên bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam tại Pari đã bắt đầu từ mươi tuần trước. Tướng Hai Mạnh kể: Đầu tháng 4/1969, tôi được đến Nhà sàn gặp và báo cáo rất vắn tắt tình hình Khu V và chỉ đạo của Thường trực Quân ủy Trung ương tại Hội nghị với Bác. Lúc vào Nhà sàn chào Bác, tôi thấy Bác đã mệt nhiều, Bác nắm tay tôi, như muốn nói về nỗi nhớ và nguyện vọng đi thăm đồng bào miền Nam. Tôi được anh em nhắc chỉ nói thật tóm tắt, mà mình lúc đó cũng xúc động chỉ biết nhìn Bác. Sau đó vài ngày, tôi còn được một lần nữa ăn cơm với Bác, hôm đó chỉ có mình tôi, vì theo kế hoạch Văn phòng thu xếp tôi sẽ cùng anh Lê Đức Anh ăn cơm với Bác trước ngày cả hai lên đường vào chiến trường. Anh vào Nam Bộ còn tôi vào Khu V nhưng tôi bị sốt, không vào cùng được. Cận ngày lên đường, văn phòng Bác thu xếp cho tôi được vào ăn trưa. Đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp và ăn cơm với Bác. Tôi cảm nhận được rõ tình cảm và sự xúc động của cả hai Bác cháu. Lúc chia tay Bác ở Nhà sàn, tôi thực sự không muốn rời đi. Càng thấy trách nhiệm của mình, thấy nhớ, thấy thương Bác thật nhiều.
Với Đại tướng Chu Huy Mân, trọn đời cả cuộc đời, ông đã luôn nhớ và thực hiện những lời thề mà ông đã đại diện cho Đảng bộ, quân dân Khu V đọc trước bàn thờ Bác trong Lễ truy điệu Người tổ chức tại căn cứ Sông Tranh, Quảng Nam ngày 8/9/1969: “Quyết hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Thề quyết học tập tinh thần triệt để cách mạng, đạo đức cao cả của Bác”(8).
Chú thích:
1. Từ lần ở đây có thể là 1 nhưng cũng có thể là nhiều lượt trong một lần, ví dụ: Theo hình ảnh tư liệu còn lưu về chuyến công tác tại Nghệ An từ ngày 8-11/12/1961 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Chu Huy Mân đã tháp tùng và tham dự hầu hết các hoạt động của Người ở Nghệ An.
2. Đại tướng Chu Huy Mân: Thời sôi động, Nxb. Quân đội Nhân dân, H, 2004, tr. 89.
3. Trần Đăng Ninh (1910-1955), tên thật là Nguyễn Tuấn Đáng, Ủy viên Trung ương Đảng khóa I, II, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng (tháng 10/1948), Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam 1950-1955 và là Phó tổng Thanh tra đầu tiên của Ban Thanh tra Chính phủ (năm 1949).
4. Ngô Vi Thiện ( 1927-2003) Giáo sư, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, khi đó là trợ lý của đồng chí Trần Đăng Ninh
5. Phạm Văn Khoa ((1913 – 1992), Tham gia phong trào Truyền bá quốc ngữ, Nghệ sỹ Nhân dân, Đạo diễn điện ảnh, chủ nhiệm báo Cờ giải phóng, chủ nhiệm báo Sự thật, Giám đốc đầu tiên của Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam (1953), nguyên giám đốc Hãng Phim truyện Việt Nam, đồng tác giả phim tài liệu nghệ thuật Việt Nam kháng chiến và phim “Việt Nam trên đường thắng lợi”. Được truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2007.
6. Nguyễn Chánh (1914-1957) Thiếu tướng, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ Bộ Quốc phòng. Huân chương Sao Vàng.
7. Nguyễn Bá Phát (1921-1993) Đại biểu Quốc hội khoá: III,IV,V,VI, Thiếu tướng, AHLL- VT, Ủy viên Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng, Tư lệnh Hải quân.
8. Đảng ủy BTL Quân khu V: Công tác Đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang.
Nguyễn Thị Thu Hà // https://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/
—————————————————————————-
ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN – VỊ TƯỚNG ĐẮC NHÂN TÂM
Là chỉ huy trực tiếp lãnh đạo các đơn vị chủ lực tác chiến trên chiến trường, đồng chí Chu Huy Mân vừa có tài phát hiện vấn đề trên chiến trường, vừa có nhiều sáng kiến, cùng anh em, đồng chí, đồng đội giải quyết khó khăn, giành thắng lợi trong các trận đánh.
PGS, TS Hoàng Trang, nguyên Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, đồng chí Chu Huy Mân thuộc lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam, sớm được tiếp thu lý luận cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam từ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Đồng chí Chu Huy Mân tham gia lực lượng vũ trang cách mạng và được trao nhiệm vụ làm công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội từ rất sớm. Thực hành công tác này, đồng chí Chu Huy Mân hiểu sâu sắc tư tưởng nhân văn cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xây dựng lực lượng vũ trang, thực hành chiến tranh cách mạng là cần thiết, nhưng trước hết cần xây dựng được con người Việt Nam dám cầm súng và biết sử dụng súng đúng. Bởi vậy, người chỉ huy bộ đội không phải chỉ biết ra những mệnh lệnh quân sự, mà trước hết phải biết xây dựng các chiến sĩ quân đội thành những người có lý tưởng cách mạng sâu sắc và quyết tâm chiến đấu, hy sinh cho độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc của nhân dân.

Nhìn lại trận đánh Kỳ Sanh tại Quảng Nam năm 1964, khi đó, để phục vụ kế hoạch tác chiến Thu – Đông, bộ đội ta phải vận động trên địa hình trống trải, giữa hệ thống cứ điểm dày đặc của địch, chúng có thể phát huy được máy bay, pháo binh, cơ giới tấn công quân ta. Trước khi xuất quân, đồng chí Chu Huy Mân tới động viên bộ đội, nhận thấy tinh thần chiến đấu tốt, sức khỏe bộ đội được cải thiện, tuy nhiên chỉ có chưa đến hai chục xẻng, cuốc, khó đào công sự xong trong đêm. Suy nghĩ một lúc, đồng chí Chu Huy Mân mượn dao và rồi cùng vài đồng chí ra rừng tìm một cây gỗ thật cứng, chặt một đoạn vót nhọn. Sau đó, tập hợp bộ đội, đồng chí vừa cầm cây cọc gỗ vót nhọn và vừa nói:
“Các đồng chí! Xưa kia Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng bằng những cây cọc gỗ như thế này, tất nhiên là lớn hơn, dài hơn. Ngày nay, các đồng chí hãy noi gương cha ông, dùng những cọc gỗ để đánh Mỹ, ngụy. Gỗ có thể đâm thủng thuyền giặc, thì gỗ cũng có thể dùng để đào công sự chiến đấu”. (Trích Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh, NXB Quân đội nhân dân, 2010, tr.70)
Các đồng chí bộ đội hiểu được ý của đồng chí Chu Huy Mân, liền tỏa vào rừng, mỗi người chặt một đoạn cây, vót nhọn để thay cuốc, xẻng. Đêm đó, hiệu quả đào công sự cá nhân của bộ đội khá tốt.
Theo đúng kế hoạch, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-8-1964, một bộ phận của Tiểu đoàn 90 Trung đoàn 1 tiến công tiêu diệt 1 đại đội quân ngụy ở thôn 8, xã Kỳ Sanh. Những công sự đào vội bằng những cọc gỗ vót nhọn chỉ sâu đến thắt lưng, cũng đủ để chiến sĩ ta vững tâm chờ địch.
9 giờ 35 phút ngày 10-8, đại bộ phận quân địch đã lọt vào trận địa phục kích của ta. Quân ta lập tức xông lên truy diệt gần 100 tên địch nữa. Ta thương vong 41. Tuy chưa diệt gọn được toàn bộ quân địch nhưng đây là trận đầu tiên Tiểu đoàn bộ binh 90 đã trụ vững ở địa bàn đồng bằng.
Nói về Chu Huy Mân, có thể thấy, ngoài tài dự đoán và phát hiện những vấn đề nảy sinh trên chiến trường, đồng chí còn là người luôn gần gũi, sâu sát, kịp thời động viên, khích lệ tinh thần đồng chí, đồng đội vào những thời điểm khó khăn trong thời kỳ kháng chiến.
Một trong những giai đoạn khó khăn ấy, phải kể đến thời kỳ sau chiến thắng Plây Me – Ia Đrăng năm 1965. Tuy thắng lợi nhưng thương vong của quân ta tương đối cao, mỗi đại đội chỉ còn hơn nửa quân số, lại phải ăn uống kham khổ thiếu thốn. Thời điểm đó, trong hầu hết các đơn vị đều nảy sinh hiện tượng sinh hoạt rời rạc, kỷ luật nội bộ không nghiêm, kỷ luật dân vận sút kém, thậm chí có những hành động xấu. Nguyên nhân chủ yếu là do một số cán bộ dù đã qua chiến đấu ác liệt, chiến thắng vẻ vang nhưng lập trường chính trị, ý chí chiến đấu chưa được rèn luyện vững chắc, buông lỏng lãnh đạo tư tưởng, quản lý sinh hoạt cán bộ cấp dưới và chiến sĩ. Trong lúc khó khăn, thái độ của cán bộ đối với chiến sĩ thiếu ân cần chăm sóc và hay nặng lời khiến cấp dưới và chiến sĩ càng chây lười, nên mệnh lệnh không có hiệu lực. Nội bộ một số đơn vị mất đoàn kết dẫn đến quan hệ quân dân có những biểu hiện xấu. Những thiếu sót này cần kịp thời chấn chỉnh tránh mất sức chiến đấu nghiêm trọng.

Trước tình hình trên, Đảng ủy Mặt trận chủ trương tiến hành củng cố bộ đội toàn diện. Nội dung đợt chỉnh huấn chính trị lần này tập trung quán triệt học tập truyền thống và bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đồng thời, phát động tư tưởng cho cán bộ nói hết tâm tư vướng mắc của mình, qua đó trao đổi cùng nhau giải quyết. Đối với cán bộ trung, cao cấp phải tự giác đề cao tự phê bình và phê bình, mỗi người làm hai bản kiểm điểm một bản nêu rõ ưu điểm và một bản nêu rõ những suy nghĩ và hành động trái với truyền thống và bản chất cách mạng của Đảng và Quân đội ta.
Cuối đợt chỉnh huấn chính trị, đồng chí Chu Huy Mân cầm hai tập giấy khá dày nói: “Đây là bản kiểm điểm của các đồng chí. Phần ưu điểm các đồng chí giữ lấy, để phát huy trong hoạt động chiến đấu lâu dài, còn đây là những bản trình bày khuyết điểm, tôi đọc và thấy các đồng chí đã tự phê bình một cách nghiêm túc trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng và nhận rõ mỗi người đều có phương hướng phấn đấu cụ thể, thiết thực nên không cần phải giữ lại nó nữa. Tôi tuyên bố đốt tất cả những bản về khuyết điểm”. (Trích Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh, NXB Quân đội nhân dân, 2010, tr.99)
Đợi cho những tờ giấy cuối cùng cháy thành tro, đồng chí Chu Huy Mân mời chính ủy các trung đoàn lên rồi trao cho mỗi đồng chí một sợi dây thừng để trói tù binh Mỹ trong tiếng vỗ tay vang dậy cả một cánh rừng, mỗi cán bộ với lòng tin và niềm vui ai cũng háo hức về củng cố và nâng cao sức chiến đấu của đơn vị mình, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới, thực hiện tốt kế hoạch của trên.
Theo PGS, TS Hoàng Trang, đồng chí Chu Huy Mân hiểu sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải biết thương yêu chiến sĩ của mình như anh em ruột thịt trong gia đình, phải biết quý máu xương chiến sĩ, phải hiểu rõ tư tưởng, tình cảm của mỗi người mà giải thích, bàn bạc, thuyết phục họ, từ đó mà ra mệnh lệnh, cùng họ thực hiện mệnh lệnh. Đó là chủ nghĩa nhân văn, là phương pháp đắc nhân tâm mà đồng chí Chu Huy Mân tiếp thu từ tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hành trong thực tiễn.
Thùy Anh // https://www.qdnd.vn/
—————————————————————————-
[PHOTO] ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN: NHÀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ TÀI BA, CÓ TẦM CHIẾN LƯỢC
—————————————————————————-
Giới thiệu Sách:
THƯ VIỆN TỈNH BÌNH THUẬN XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU MỘT VÀI TÀI LIỆU VỀ ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN CÓ TẠI THƯ VIỆN
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị Quốc gia sự thật, 2020
- Ký hiệu xếp giá: 959.704092 / CH500M
- Mô tả vật lý: 387tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.028396
- Tóm tắt: Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của đồng chí Chu Huy Mân từ quê hương, gia đình, thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên, rèn luyện và trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ tổ quốc
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị quốc gia, 2013
- Ký hiệu xếp giá: 355.0092 / Đ103T
- Mô tả vật lý: 682r., 24cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.012980
- Tóm tắt: Tập hợp 91 bài viết, bài nghiên cứu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh, sỹ quan quân đội, các nhà khoa học, nhà văn, nhà báo viết về cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến to lớn của Đại tướng Chu Huy Mân đối với Đảng, Nhà nước, quân đội, nhân dân ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước
- Thông tin xuất bản: H.: Chính trị quốc gia, 2007
- Ký hiệu xếp giá: 324.259707092 / Đ103T
- Mô tả vật lý: 667tr., 22cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.011656; Phòng Mượn: MVV.012723
- Chủ đề: Văn học hiện đại; Việt Nam; Hồi kí; Nhà chính trị; Nhà quân sự; Chu Huy Mân (1913 – 2006)
Views: 5