Kỷ niệm 18 năm ngày Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (11/01/2007 – 11/01/2025)
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền:
KỶ NIỆM 18 NĂM NGÀY VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
(11/01/2007 – 11/01/2025)
- Việt Nam là tấm gương sáng về tăng trưởng
- Hành trình hội nhập và phát triển
- Bước tiến trên con đường hội nhập kinh tế toàn cầu
- Giới thiệu Sách: Một vài tài liệu về chủ đề “Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới” có tại Thư viện tỉnh Bình Thuận
—————————————————————
VIỆT NAM LÀ TẤM GƯƠNG SÁNG VỀ TĂNG TRƯỞNG
Sau 18 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11/1/2007, Việt Nam đã ghi dấu ấn về tăng trưởng kinh tế dựa trên các thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngày 1/1/1995, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chính thức đi vào hoạt động theo Tuyên bố Marrakesh được ký kết tại Maroc.
Trong 30 năm hình thành và phát triển, WTO đã góp phần định hình lại thương mại toàn cầu, mở rộng giao thương giữa các quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các tranh chấp thương mại và hỗ trợ các nền kinh tế đang phát triển hội nhập vào hệ thống thương mại. Tuy nhiên, tổ chức này hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và căng thẳng địa chính trị ngày càng phức tạp.
Kể từ khi ra đời, với vai trò trung tâm trong việc xây dựng, điều phối các quy tắc thương mại quốc tế, WTO đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thương mại quốc tế tăng hơn gấp 6 lần, từ 4.300 tỷ USD năm 1994 lên hơn 27.000 tỷ USD vào năm 2023. Tỷ lệ thương mại so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu cũng nhảy vọt từ 19,9% lên 29,9%. Thương mại toàn cầu tăng trưởng mạnh mẽ với nhiều hàng xuất khẩu hơn từ các nước thu nhập thấp và trung bình đã góp phần giảm tình trạng nghèo đói trên toàn cầu.
Theo Ban Thư ký WTO, tỷ lệ nghèo trên toàn cầu đã giảm từ 38,1% năm 1996 xuống còn 10,6% năm 2022. Các biện pháp giảm thuế quan và rào cản thương mại cũng thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu rộng.
Đơn cử GDP của nền kinh tế Mỹ đã tăng thêm 87 tỷ USD trong giai đoạn 1995-2020 nhờ tham gia WTO. Các thành tựu đạt được phần lớn nhờ vào quá trình tự do hóa thương mại đa phương thông qua tổ chức này.
Sau 18 năm gia nhập WTO (11/1/2007), Việt Nam đã ghi dấu ấn về tăng trưởng kinh tế dựa trên các thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những thành tựu có được là động lực mạnh mẽ để Việt Nam tiếp tục phát triển, trở thành quốc gia cạnh tranh và hiện đại.
Trong chuyến thăm tới Việt Nam hồi tháng 5/2023, Tổng Giám đốc WTO Ngozi Okonjo-Iweala đánh giá “Việt Nam là tấm gương sáng về tăng trưởng kinh tế dựa trên các thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó thúc đẩy thương mại và đầu tư, tham gia thành công vào tiến trình toàn cầu hóa và tái định hình chuỗi cung ứng khu vực và quốc tế.”
Thành tựu nổi bật nhất là Việt Nam đã trở thành một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, duy trì xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp, duy trì nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP.
Ở thời điểm hiện tại, WTO và các quy tắc của tổ chức này vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các quốc gia tận dụng các cơ hội mới cho tăng trưởng thương mại, khai thác thương mại để giải quyết các thách thức toàn cầu và giảm căng thẳng thương mại. Tuy nhiên, trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng, WTO cũng đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng.
Bầu không khí hợp tác ngày nay u ám hơn nhiều so với tháng 4/1994 khi Tuyên bố Marrakesh về thành lập WTO, được ký kết. Tâm lý hào hứng đối với các thỏa thuận tự do thương mại mang tính đột phá đã nhường chỗ cho chủ nghĩa bảo hộ.
Căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, đã đưa các tranh chấp vượt khỏi phạm vi WTO và làm suy yếu vai trò trung gian của tổ chức này. Hệ thống giải quyết tranh chấp bị đình trệ từ năm 2019 do Mỹ ngăn chặn việc bổ nhiệm thẩm phán mới, khiến nhiều vụ việc không thể giải quyết triệt để.
Sau những biến cố như đại dịch COVID-19, xung đột Nga-Ukraine, khủng hoảng lương thực,… xu hướng phân mảnh và bảo hộ thương mại trong cấu trúc thương mại toàn cầu đang trỗi dậy với việc các nước đặt ra các hàng rào phi thuế quan.
Bên cạnh đó, sự phân hóa giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển cũng tạo ra thách thức lớn trong việc đạt được đồng thuận về các vấn đề thương mại nhạy cảm.
Tổng Giám đốc WTO Ngozi Okonjo-Iweala cho biết ngoài các tranh chấp quen thuộc giữa các nước ở Bắc bán cầu và Nam bán cầu, đã có những dấu hiệu chia rẽ Nam-Nam tại cuộc họp cấp bộ trưởng WTO ở Abu Dhabi (Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất – UAE) hồi tháng 2/2024. Những điều này phản ánh lập trường kiên quyết của một số quốc gia đang phát triển – chẳng hạn như Ấn Độ và Brazil – rằng tiếng nói của họ phải được lắng nghe.
Bà Okonjo-Iweala đã thừa nhận rằng WTO hiện gặp nhiều khó khăn trong việc đạt được sự đồng thuận giữa 166 quốc gia thành viên và tổ chức này không thể tiếp tục “hoạt động theo cách truyền thống.”
Ông Evan Rogerson, cựu quan chức cấp cao của WTO và hiện là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu đa phương tại Singapore, cũng nhận định rằng cuộc họp cấp bộ trưởng WTO tại Abu Dhabi gây thất vọng vì không đạt được bất kỳ tiến triển đa phương thực chất nào ngoài việc kết nạp thêm 2 thành viên là Timor Leste và Comoros.
Vai trò của WTO sẽ dần bị mai một nếu không thay đổi cơ chế vận hành và cải cách mà trong đó, đối thoại chính sách nhằm xây dựng một bộ nguyên tắc có tính thích ứng cao là điều cấp thiết.
Bên cạnh đó, nhằm xây dựng một hệ thống thương mại đa phương minh bạch, bao trùm, công bằng và cởi mở, chương trình đối thoại cần cân bằng với cơ hội thực tế để giải quyết các mối quan tâm ưu tiên cho tất cả thành viên WTO phát triển, mới nổi và đang phát triển.
Có thể thấy, 30 năm sau khi WTO ra đời, hiện là lúc cần “hâm nóng” tinh thần hợp tác đã truyền cảm hứng cho sự hình thành của tổ chức này. Rõ ràng, thúc đẩy toàn cầu hóa sẽ giúp khôi phục vị thế trung tâm của WTO, qua đó làm cho thương mại thế giới trở nên bao trùm và công bằng hơn.
Theo giới chuyên gia, để duy trì vai trò then chốt trong thương mại toàn cầu, WTO cần thực hiện các cải cách mang tính chiến lược. Việc khôi phục hoạt động của cơ quan phúc thẩm và cải thiện quy trình giải quyết tranh chấp sẽ giúp nâng cao tính minh bạch và công bằng. Tăng cường tiếng nói của các quốc gia đang phát triển trong quá trình ra quyết định sẽ xây dựng một hệ thống thương mại công bằng hơn.

Đồng thời, các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cần được đẩy mạnh để giúp các quốc gia nghèo nâng cao năng lực xuất khẩu. Việc xây dựng quy tắc cho các lĩnh vực mới như thương mại điện tử, biến đổi khí hậu và trợ cấp công nghiệp cũng là bước đi cần thiết để WTO bắt kịp xu thế toàn cầu. Tổng Giám đốc WTO Okonjo-Iweala cho rằng cải cách có ý nghĩa sẽ đòi hỏi các nước đang phát triển phải đóng vai trò lớn hơn.
Như lời nhà lãnh đạo này khẳng định trong sự kiện kỷ niệm 30 năm ngày ra đời Hiệp định Marrakesh (15/4/1994), thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện cuộc sống của người dân trên toàn thế giới và trong 3 thập niên qua, với WTO, đã có hơn 1,5 tỷ người đã thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực.
Đây là thành quả có ý nghĩa nhất, thể hiện rõ cam kết lâu dài của WTO về việc thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường; bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế; nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
Sau 30 năm WTO ra đời, những cam kết này vẫn là “ngọn hải đăng” chiếu sáng con đường hướng tới thương mại đa phương bền vững và thịnh vượng.
TTXVN // https://dttc.sggp.org.vn/
—————————————————————
HÀNH TRÌNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tại Geneva, Thụy Sĩ. Đến ngày 11/1/2007, các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên WTO chính thức có hiệu lực. Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra một chặng đường phát triển mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Sau gần hai thập kỷ, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu về thương mại, đầu tư, không những giúp nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu mà còn thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam về hội nhập quốc tế.

* Cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Tổ chức Thương mại Thế giới là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc thương mại toàn cầu. Chính thức thành lập vào ngày 1/1/1995, WTO có nhiệm vụ chính là thúc đẩy thương mại tự do và công bằng giữa các quốc gia, giảm thiểu rào cản thương mại, và hỗ trợ các thành viên phát triển kinh tế. Hiện tại, WTO có 165 quốc gia thành viên, chiếm hơn 90% thương mại toàn cầu. Các hiệp định của WTO bao gồm sáu lĩnh vực chính: thương mại hàng hóa, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, đánh giá chính sách thương mại và các thỏa thuận thành lập WTO.
Các nguyên tắc hoạt động của WTO, như: không phân biệt đối xử, minh bạch và công bằng… đã khuyến khích các nước thành viên mở cửa thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước có cơ hội cạnh tranh quốc tế. Sự phát triển của WTO cũng thúc đẩy các thành viên phát triển bền vững, cải thiện cơ sở pháp lý và hoàn thiện hệ thống kinh tế, tài chính phù hợp với yêu cầu hội nhập.
Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam kéo dài hơn một thập kỷ, từ năm 1995 đến 2006. Để trở thành thành viên chính thức, Việt Nam phải trải qua nhiều cuộc đàm phán song phương và đa phương phức tạp, đồng thời điều chỉnh nhiều quy định pháp lý và cải cách kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO.
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập WTO tại Geneva, đánh dấu cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đến ngày 11/1/2007, các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên WTO chính thức có hiệu lực.
Quyết định gia nhập WTO không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam mà còn mang lại những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam đã có nền tảng để cải cách sâu rộng hơn về chính sách kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, quá trình này cũng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm và chuẩn bị tốt hơn để đáp ứng những tiêu chuẩn cao của thị trường quốc tế.

* Việt Nam khẳng định vị thế
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy biến động nhưng cũng đạt được những thành tựu đáng tự hào. Những nỗ lực trong việc mở cửa nền kinh tế, cải cách thể chế và tăng cường hợp tác quốc tế đã mang lại cho Việt Nam không chỉ sự tăng trưởng vượt bậc về thương mại, mà còn giúp thu hút nguồn đầu tư nước ngoài lớn, góp phần làm thay đổi diện mạo nền kinh tế Việt Nam, giúp Việt Nam có vị thế vững chắc trong khu vực và trên toàn cầu.
– Đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu
Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về thương mại. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, từ mức trên 48 tỷ USD vào năm 2007 lên đến trên 371 tỷ USD vào năm 2022 (năm xuất khẩu kỷ lục), gấp gần 8 lần so với thời điểm gia nhập. Việt Nam hiện nằm trong nhóm 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, duy trì mức xuất siêu liên tục trong suốt tám năm qua, với thặng dư thương mại tăng từ 1,77 tỷ USD năm 2016 lên mức kỷ lục là trên 28 tỷ USD năm 2023.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ các sản phẩm nông sản, thủy sản sang hàng công nghiệp chế biến, công nghệ cao. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo chiếm 85% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm như điện thoại, linh kiện điện tử, máy móc, thiết bị và dệt may trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng góp tích cực vào thành tựu thương mại và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt trên thị trường quốc tế.
Việc gia nhập WTO không chỉ thúc đẩy sự tăng trưởng thương mại mà còn mở rộng hợp tác kinh tế và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cho Việt Nam. Tính đến tháng 10/2024, Việt Nam đã ký kết, thực thi 17 FTA và đang đàm phán 2 FTA khác. Trong đó, các FTA thế hệ mới, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… đã giúp Việt Nam tiếp cận sâu rộng vào các thị trường lớn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và EU đạt 72,3 tỷ USD. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn nhất của EU trong ASEAN. Bên cạnh đó, thương mại với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cũng ghi nhận nhiều tiến bộ, đưa Việt Nam trở thành đối tác thương mại quan trọng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhờ mở rộng thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đã có điều kiện cải thiện sản phẩm, nâng cao chất lượng và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe.
– Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Gia nhập WTO đã mở rộng cánh cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư quốc tế. Năm 2008, lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt tới 64 tỷ USD, cao gấp ba lần so với năm 2007. Đến năm 2023, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 36,6 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước thu hút FDI hàng đầu thế giới. FDI đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm mới cho người lao động.
Các tập đoàn lớn trong lĩnh vực công nghệ cao như Samsung, Intel, LG và Foxconn đã chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất, tạo động lực thúc đẩy công nghiệp phụ trợ và đổi mới công nghệ. Dòng vốn FDI cũng mang lại lợi ích dài hạn, cải thiện năng lực sản xuất và nâng cao trình độ quản trị của doanh nghiệp trong nước, từ đó giúp Việt Nam dần trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
– Cải thiện hệ thống pháp lý và thể chế kinh tế
Gia nhập WTO đã thúc đẩy quá trình cải cách mạnh mẽ trong hệ thống pháp lý và thể chế kinh tế của Việt Nam. Chính phủ đã nỗ lực sửa đổi, hoàn thiện nhiều quy định pháp luật về đầu tư, thương mại và xuất nhập khẩu, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Những cải cách này đã giúp nâng cao tính minh bạch trong quản lý kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong 10 năm 2007-2017, chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải thiện được 13 bậc, chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019, thứ hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp thứ 67/141 nền kinh tế. Sau 2019, WEF không công bố số liệu mới do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tuy nhiên, thứ hạng và điểm số trước đó đã thể hiện bước tiến mạnh mẽ của Việt Nam.
Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng, từ vị trí 88 vào năm 2016 lên vị trí 49 vào năm 2020 và xếp vị trí 55 vào năm 2022 (việc giảm thứ hạng là do thay đổi về mặt phương pháp tính). Trong bảng xếp hạng SDG toàn cầu năm 2023, Việt Nam đứng thứ 54 trên 166 quốc gia, với điểm số tổng quan là 73,3, cao hơn đáng kể so với mức trung bình khu vực châu Á và ASEAN.
Các thành tựu về thương mại, đầu tư và cải cách pháp lý là những minh chứng rõ ràng cho thấy Việt Nam đang tận dụng hiệu quả các cơ hội từ WTO để xây dựng nền tảng phát triển bền vững cho tương lai. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu nổi bật, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Việc hạ thuế quan và mở cửa thị trường trong nước khiến cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) gay gắt hơn. Đặc biệt, khi tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam phải đối mặt với vấn đề phòng vệ thương mại từ các thị trường lớn, như Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực pháp lý và chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của các đối tác thương mại.
Để phát triển bền vững, theo các chuyên gia, Việt Nam cần đẩy mạnh năng lực phòng vệ thương mại bằng cách đào tạo chuyên môn cho cán bộ và doanh nghiệp, thiết lập cơ chế cảnh báo sớm để dự báo nguy cơ từ các thị trường lớn. Ngoài ra, việc chuyển đổi mô hình sản xuất từ gia công sang các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao sẽ giúp doanh nghiệp nội địa giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, cải thiện khả năng cạnh tranh và giảm thiểu tác động từ những thay đổi chính sách thương mại quốc tế…
Như vậy, sau 18 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở cao nhất thế giới, khẳng định vai trò tích cực trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy còn nhiều thách thức phía trước, nhưng với các giải pháp hỗ trợ từ Chính phủ và sự nỗ lực của doanh nghiệp, tin rằng chúng ta có thể tiếp tục duy trì đà tăng trưởng bền vững, tiếp tục khẳng định vị thế kinh tế trên trường quốc tế./.
Minh Hiếu // https://nvsk.vnanet.vn/
—————————————————————
BƯỚC TIẾN TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP KINH TẾ TOÀN CẦU
Sau hơn 1 thập kỷ đàm phán kéo dài, từ ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Sự kiện lớn này đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong 18 năm qua; đồng thời là tiền đề vững chắc cho đất nước tiếp tục vượt qua thách thức, đón nhận cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Để trở thành thành viên chính thức, Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đàm phán song phương và đa phương phức tạp từ năm 1995 đến năm 2006, đồng thời điều chỉnh nhiều quy định pháp lý và cải cách kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO.
Quyết định gia nhập WTO không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam, mà còn mang lại những cơ hội lớn cho doanh nghiệp trong nước. Việt Nam đã có nền tảng để cải cách sâu rộng hơn về chính sách kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, quá trình này cũng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm, chuẩn bị tốt hơn để đáp ứng những tiêu chuẩn cao của thị trường quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu nổi bật về thương mại, đầu tư, khẳng định cam kết mạnh mẽ của nước ta về hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, từ mức trên 48 tỷ USD vào năm 2007 lên đến 405,53 tỷ USD vào năm 2024 – gấp hơn 8 lần so với thời điểm gia nhập WTO, trong đó xuất siêu là 24,77 tỷ USD. Ngành hàng dệt may đánh dấu sự bứt phá mạnh mẽ với kim ngạch 44 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2023.
Hiện tại, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu hàng dệt may, sau Trung Quốc và vượt qua Bangladesh. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ các sản phẩm nông sản, thủy sản sang hàng công nghiệp chế biến, công nghệ cao. Các sản phẩm như điện thoại, linh kiện điện tử, máy móc, thiết bị trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đóng góp tích cực vào thành tựu thương mại chung. Kết quả nói trên đưa nước ta vươn lên vị trí 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.
Việc gia nhập WTO không chỉ thúc đẩy tăng trưởng thương mại mà còn mở rộng hợp tác kinh tế và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cho Việt Nam. Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam đã ký kết, thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 2 FTA khác. Trong đó, các FTA thế hệ mới, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… đã giúp Việt Nam tiếp cận sâu rộng vào các thị trường lớn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam hiện trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn nhất trên thế giới. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đến ngày 31-12-2024, cả nước có 42.002 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 502,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt gần 322,5 tỷ USD. Các tập đoàn lớn trong lĩnh vực công nghệ cao như Samsung, Intel, LG và Foxconn đã chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất, tạo động lực thúc đẩy công nghiệp phụ trợ và đổi mới công nghệ. Dòng vốn FDI cũng mang lại lợi ích dài hạn, cải thiện năng lực sản xuất và nâng cao trình độ quản trị của doanh nghiệp trong nước, từ đó giúp Việt Nam dần trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng, từ vị trí 88 vào năm 2016 lên vị trí 49 vào năm 2020. Trong bảng xếp hạng SDG toàn cầu năm 2024, Việt Nam xếp vị trí 54/166 quốc gia và vùng lãnh thổ với điểm số tổng quan là 73,3, cao hơn đáng kể so với mức trung bình khu vực châu Á và ASEAN.
Các thành tựu về thương mại, đầu tư và cải cách pháp lý là những minh chứng rõ ràng cho thấy, Việt Nam đã tận dụng hiệu quả các cơ hội sau 18 năm gia nhập WTO để xây dựng nền tảng phát triển bền vững cho tương lai. Tuy còn nhiều thách thức phía trước, Việt Nam vẫn luôn nhấn mạnh vai trò và vị thế của WTO, đồng thời cam kết phối hợp tối đa để phát triển tổ chức thương mại toàn cầu này.
WTO (trụ sở ở Geneva, Thụy Sĩ) là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc thương mại toàn cầu. Chính thức thành lập vào ngày 1-1-1995, WTO có nhiệm vụ chính là thúc đẩy thương mại tự do và công bằng giữa các quốc gia, giảm thiểu rào cản thương mại, và hỗ trợ các thành viên phát triển kinh tế. Hiện tại, WTO có 165 quốc gia, vùng lãnh thổ thành viên, chiếm hơn 90% thương mại toàn cầu. Các hiệp định của WTO bao gồm sáu lĩnh vực chính: Thương mại hàng hóa, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, đánh giá chính sách thương mại và các thỏa thuận thành lập WTO. |
Kim Dung // https://hanoimoi.vn/
—————————————————————
Giới thiệu Sách:
THƯ VIỆN TỈNH BÌNH THUẬN XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU MỘT VÀI TÀI LIỆU VỀ CHỦ ĐỀ “VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI” CÓ TẠI THƯ VIỆN
1.Cẩm nang giới thiệu pháp luật của tổ chức thương mại thế giới
- Tác giả: Bossche, Peter Van Den
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2009
- Ký hiệu xếp giá: 382.09597 / C120N
- Mô tả vật lý: 271tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.014625 ; Phòng Mượn: MVV.018141; MVV.018142
- Tóm tắt: Giới thiệu các quy định pháp luật quốc tế về thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, cụ thể như: quy định về phân biệt đối xử, về tiếp cận thị trường, về thương mại không cân bằng, về xung đột và giải quyết xung đột giữa tự do thương mại và các giá trị văn hóa…
2.Tự do hóa tài chính của Việt Nam theo các cam kết trong WTO
- Tác giả: Đặng, Thị Nhàn
- Thông tin xuất bản: H.: Khoa học và kỹ thuật, 2009
- Ký hiệu xếp giá: 332.09597 / T550D
- Mô tả vật lý: 226tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.014644; Phòng Mượn: MVV.018173; MVV.018174
- Tóm tắt: Nghiên cứu bản chất của quá trình tự do hóa tài chính nói chung và tự do hoá tài chính trong WTO; kinh nghiệm của một số nước về tự do hóa tài chính theo WTO; giải pháp cho tiến trình tự do hoá tài chính theo WTO của Việt Nam
3.Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế
- Tác giả: Lê, Thanh Hà
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Khoa học và Kỹ thuật, 2009
- Ký hiệu xếp giá: 338.7 / TR102NH
- Mô tả vật lý: 196tr.: bảng, 24cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.009831 ; Phòng Mượn: MVL.009790
- Tóm tắt: Trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp, đánh giá việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam, đề xuất các giải pháp thúc đẩy việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
- Thông tin xuất bản: H.: Tư pháp, 2007
- Ký hiệu xếp giá: 382.597 / V308N
- Mô tả vật lý: 216tr., 26cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.007065; DVL.007066 ; Phòng Mượn: MVL.006236; MVL.006237
- Chủ đề: Việt Nam; Tổ chức thương mại WTO; Kinh tế
5.Hỏi – Đáp về pháp luật tự vệ của Việt Nam và WTO
- Thông tin xuất bản: H.: Lao động xã hội, 2008
- Ký hiệu xếp giá: 341.7 / H428Đ
- Mô tả vật lý: 234tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.012966 ; Phòng Mượn: MVV.015268; MVV.015269
- Chủ đề: Pháp luật; Luật tự vệ; Sách hỏi đáp
6.WTO
- Thông tin xuất bản: H.: Lao động xã hội, 2007
- Ký hiệu xếp giá: 382 / V115K
- Mô tả vật lý: 1067tr., 27cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.006707 ; Phòng Mượn: MVL.005757
- Chủ đề: WTO; Việt nam; Thương mại quốc tế
7.Việt Nam – WTO những cam kết liên quan đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn và doanh nghiệp
- Thông tin xuất bản: H.: Chính trị quốc gia, 2007
- Ký hiệu xếp giá: 338.9597 / V308N
- Mô tả vật lý: 235tr., 19cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVN.024923 ; Phòng Mượn: MVN.021526; MVN.021527
- Tóm tắt: Bao gồm 148 câu hỏi và trả lời về nội dung cơ bản của tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam cùng những cam kết liên quan đến các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn và doanh nghiệp
8.Xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO
- Tác giả: Phạm Thị Hương
- Thông tin xuất bản: H.: Lý luận chính trị, 2007
- Ký hiệu xếp giá: 382.597 / X506T
- Mô tả vật lý: 178tr., 19cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVN.025159 ; Phòng Mượn: MVN.021927; MVN.021928
- Tóm tắt: Một số vấn đề về xúc tiến xuất khẩu. Những quy định của WTO có liên quan đến xúc tiến xuất khẩu và cam kết của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. …
- Thông tin xuất bản: H.: Văn hoá thông tin, 2006
- Ký hiệu xếp giá: 344.09597 / M458S
- Mô tả vật lý: 447tr., 29cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.005893
- Tóm tắt: Các văn kiện cơ bản của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cam kết của Việt Nam về văn hoá thông tin khi gia nhập WTO.
10.Tìm hiểu Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
- Thông tin xuất bản: H.: Knxb., 2006
- Ký hiệu xếp giá: 382 / T310H
- Mô tả vật lý: 250tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.009749 ; Phòng Mượn: MVV.009684; MVV.009685
- Tóm tắt: Hợp tác Việt – Pháp hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
11.WTO với doanh nghiệp Việt Nam
- Tác giả: Nguyễn Khương Bình
- Thông tin xuất bản: H.: Lao động, 2006
- Ký hiệu xếp giá: 327.04,334(V) / W000T
- Mô tả vật lý: 521tr., 27cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.005355 ; Phòng Mượn: MVL.004136
- Tóm tắt: Gồm 3 phần: Tìm hiểu WTO. Định hướng sau gia nhập WTO. Những dự báo và kinh nghiệm
- Thông tin xuất bản: Ha Noi: Labour – Society publisher., 2006
- Ký hiệu xếp giá: 346.07597 / V308N
- Mô tả vật lý: 802p., 20 x 28cm.
- Vị trí tài liệu: Phòng Ngoại văn: NVA.002578; NVA.002579
- Chủ đề: Vietnam’s WTO – commitments.
13.Các cam kết của Việt Nam với WTO
- Thông tin xuất bản: H.: Lao động xã hội, 2006
- Ký hiệu xếp giá: 346.07597 / C101C
- Mô tả vật lý: 1028tr., 28cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.005841 ; Phòng Mượn: MVL.004735
- Tóm tắt: Báo cáo của ban công tác. Biểu cam kết về hàng hoá. Biểu cam kết về dịch vụ
14.Gia nhập WTO cơ hội vàng trong đầu tư chứng khoán và thị trường chứng khoán
- Tác giả: Lê Thành Kính
- Thông tin xuất bản: H.: Tài chính, 2007
- Ký hiệu xếp giá: 332.6 / GI100NH
- Mô tả vật lý: 555tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.010009 ; Phòng Mượn: MVV.010107
- Chủ đề: Đầu tư; Chứng khoán; Thị trường chứng khoáng; WTO; Hội nhập; Việt Nam
Views: 3