Kỷ niệm 78 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/2024)
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền:
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
(19/12/1946 – 19/12/2024)
- Thời khắc trọng đại của lịch sử dân tộc
- Thăm nơi Bác Hồ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
- Toàn quốc kháng chiến – Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
- Những người kể sử: Cụ bà và di tích lịch sử gắn với những ngày “Toàn quốc kháng chiến”
- Giới thiệu Sách: Một vài tài liệu về Ngày toàn quốc kháng chiến có tại Thư viện tỉnh Bình Thuận
————————————————————-
78 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 – 19/12/2024):
THỜI KHẮC TRỌNG ĐẠI CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC
————————————————————-
THĂM NƠI BÁC HỒ VIẾT LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
Những di tích Cách mạng, kháng chiến luôn là một điểm nhấn thú vị của du lịch Thủ đô. Một trong số đó là Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, Hà Nội), nơi 78 năm trước, Bác Hồ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời không lâu thì thực dân Pháp lại âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa.
Trước tình thế đó, ngày 3/12/1946, Bác Hồ bí mật về nhà cụ Nguyễn Văn Dương ở làng Vạn Phúc (nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông) để chuẩn bị rút lên chiến khu.
Tại ngôi nhà này, trong hai ngày 18, 19/12/1946, Người đã chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng, phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Cũng tại đây, Bác đã viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và được Đài Tiếng nói Việt Nam chuyển đến toàn thể quốc dân, đồng bào. Đất nước ta bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Nhà cụ Dương có xưởng dệt lụa lớn, thường xuyên có khách đến giao thương nên che mắt được bọn mật thám. Bản thân cụ Dương cũng thường xuyên tham gia rất nhiều công việc để phục vụ Cách mạng.
Bác dừng chân tại đây đến ngày 19/12/1946 thì dời đi. Ngôi nhà cụ Nguyễn Văn Dương nay trở thành Nhà lưu niệm Bác Hồ.
Sau gần 80 năm, ngôi nhà cụ Nguyễn Văn Dương vẫn được nhân dân Thủ đô gìn giữ. Ngôi nhà gồm một tòa nhà chính hai tầng và hai dãy nhà hai bên, mỗi dãy ba gian.
Tầng một của tòa nhà chính hiện được trưng bày một số hình ảnh hiện vật của Bác trong thời gian Người ở và làm việc tại Vạn Phúc.
Hai bức tranh sơn dầu thể hiện hai sự kiện quan trọng: sự kiện Bác Hồ chủ trì Hội nghị Ban thường vụ Trung ương mở rộng bàn, quyết định toàn quốc kháng chiến và sự kiện Bác viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Một số hiện vật Bác dùng trong sinh hoạt, luyện tập sức khỏe như chiếc chậu thau đồng nhỏ, đôi tạ tay… Phần trưng bày bổ sung gồm những bức ảnh, hiện vật, sách báo, tài liệu… phản ánh khái quát cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tầng hai căn nhà được giữ gìn mọi chi tiết không gian như khi Bác ở và làm việc. Trong đó, căn phòng nhỏ bên trái có diện tích chưa đầy 12m2 lưu giữ chiếc giường gỗ dẻ quạt đơn sơ Bác nằm, chiếc gối gỗ sơn màu huyết dụ.
Kề bên giường là bàn làm việc, đó là một án thư cao chừng 75cm, chân con tiện, trên bàn là chiếc đèn dầu hỏa, trang bản thảo “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”…
Những hiện vật cho thấy cuộc đời Cách mạng đơn sơ, giản dị của lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh. Dù thời gian dừng chân ít ngày, giữa bề bộn công việc, nhưng có những hiện vật như đôi tạ tay cũng để lại bài học sâu sắc về tinh thần luyện tập của Người.
Hai dãy nhà ngang hai bên được sửa chữa, phục dựng một số không gian sinh hoạt, sản xuất của gia đình cụ Nguyễn Văn Dương, với những đồ dùng sinh hoạt và khung cửi – hiện vật tiêu biểu cho truyền thống dệt lụa của làng Vạn Phúc.
Các không gian còn lại của hai dãy nhà được dùng làm nơi đón tiếp nhân dân, khách trong nước và ngoài nước tới thăm và phòng trưng bày truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vạn Phúc.
Di tích về Bác nằm ở trung tâm làng lụa Vạn Phúc và chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 10km nên trở thành một địa chỉ du lịch về nguồn hấp dẫn, đồng thời, được nhiều người kết hợp trong hành trình khám phá làng lụa nghìn năm và tìm hiểu về cuộc đời hoạt động của Bác.
————————————————————-
TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN – BÀI HỌC VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
Trước thời khắc Tổ quốc lâm nguy, tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân tại các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã nhất tề đứng lên, cùng sự hưởng ứng, phối hợp của quân dân trên khắp cả nước, đã anh dũng chiến đấu chống quân Pháp xâm lược với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm tại các đô thị đã làm thất bại một bước chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; tạo động lực và niềm tin để quân và dân ta chủ động bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, là tiền đề đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Toàn quốc kháng chiến đã để lại nhiều bài học quý báu cho cách mạng Việt Nam, trong đó, có bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong Toàn quốc kháng chiến
Xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và nhận thức sâu sắc vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn để phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. Với tư tưởng chỉ đạo “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”, Đảng chủ trương tăng cường và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng như Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (11/1945), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/1946), Đảng chủ trương phải mở rộng và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập hợp rộng rãi các lực lượng yêu nước trong nhân dân. Để làm việc đó, một mặt, Đảng chủ trương mở rộng hơn nữa thành phần tham gia Mặt trận Việt Minh, “bao gồm mọi tầng lớp nhân dân (chú trọng: kéo địa chủ, phong kiến và đồng bào Công giáo)”1; mặt khác, tổ chức một hình thức mặt trận mới nhằm “đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng vô phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc, để làm cho nước Việt Nam: Độc lập – thống nhất – dân chủ – phú cường”2.
Bên cạnh Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam được thành lập tháng 5/1946, đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết, các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến.
Đảng cũng chú trọng đến xây dựng và củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức các hội quần chúng cứu quốc để làm hạt nhân tổ chức, tập hợp lực lượng tham gia kháng chiến. Trong thời gian ngắn, tổ chức Đảng đã được củng cố vững chắc từ Trung ương đến địa phương. Những nhóm Cứu quốc bí mật trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được nhanh chóng củng cố và phát triển. Đồng thời, thành lập các đảng phái và tổ chức xã hội như: Đảng Xã hội Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Khi toàn quốc kháng chiến diễn ra, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”4.
Để tập hợp và phát huy sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp, các lực lượng thành một khối sức mạnh thống nhất, Đảng đã phát huy cao độ vai trò của chính quyền nhân dân các cấp, vai trò của Mặt trận và các tổ chức, đảng phái chính trị, xã hội để tuyên truyền, vận động, đoàn kết mọi lực lượng với những hình thức phong phú, đa dạng và linh hoạt. Nội dung tuyên truyền chú trọng khơi dậy lòng yêu nước, ý thức dân tộc và khát vọng độc lập tự do, lòng căm thù quân xâm lược cho mỗi người dân; giáo dục cho toàn thể cán bộ, đảng viên cùng quân, dân về chủ trương và quyết tâm kháng chiến của Đảng; động viên mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia các vào tổ chức, các lực lượng để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi tầng lớp nhân dân, từ người già đến trẻ, không phân biệt gái, trai, giàu, nghèo; không phân biệt đảng phái, tôn giáo; đều hăng hái tham gia kháng chiến. Người người xung phong gia nhập lực lượng Vệ quốc đoàn, tham gia các đội tự vệ chiến đấu, các lực lượng phục vụ chiến đấu và hướng dẫn tản cư. Tại các đô thị, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội, nhân dân ở các khu phố nơi chiến sự xảy ra đã không tiếc của cải, sẵn sàng mang bàn ghế, giường tủ cùng các vật dụng trong nhà… để dựng chiến lũy trên các đường phố; tham gia đào giao thông hào, ngả cây dựng chướng ngại vật để ngăn cản bước tiến của quân Pháp; sẵn sàng nhường nhà, đục tường nhà cho Vệ quốc quân và Tự vệ, dựa vào đó để tổ chức hình thành các ổ đề kháng, đường cơ động, triển khai thế trận đánh địch. Lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu ngoài công nhân, nông dân, trí thức, còn có cả phụ nữ, thanh thiếu niên, các nhà sư… Tất cả mọi người đều có chung một tinh thần yêu nước cao độ, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Đảng đã tổ chức và tập hợp được lực lượng to lớn trên cơ sở phát huy sức mạnh đoàn kết của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, là người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài; tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân.
Nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong 60 ngày đêm mở đầu toàn quốc kháng chiến, quân ta đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu hao sinh lực địch, giam chân địch dài ngày trong các đô thị để hậu phương có điều kiện tổ chức triển khai thế trận chiến đấu lâu dài; bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ và nhân dân cùng tài sản, phương tiện, máy móc… di chuyển đến các an toàn khu để tiếp tục chiến đấu giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Toàn quốc kháng chiến – Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay
Thứ nhất, Đảng nhận thức đúng vị trí và tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đảng ngày càng nhận thức sâu sắc hơn sức mạnh và vai trò của quần chúng nhân dân: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”5, “nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức và phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, nhất là quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc: “Đoàn kết là một truyền thống quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”7.
Thứ hai, Đảng luôn thực hiện nhất quán quan điểm “đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”8.
Phát huy những điểm tương đồng, điểm chung của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, già hay trẻ, giàu hay nghèo, nam hay nữ, nếu “ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”9, nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ ba, phải luôn khơi dậy được lòng yêu nước, khát vọng độc lập, hòa bình và ý chí tự lực, tự cường của dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng luôn “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”10. Đây chính là cội nguồn, là chất keo để tiếp tục củng cố, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Thứ tư, không ngừng củng cố, giữ vững niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Từ kinh nghiệm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong Toàn quốc kháng chiến, cũng như trong thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và mục tiêu, lý tưởng, đường lối cách mạng mà Đảng đề ra và lãnh đạo chính là cơ sở tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, Đảng cần phải tiếp tục nâng cao trình độ lý luận và năng lực hoạch định đường lối để luôn đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Đồng thời, không ngừng củng cố, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh; xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có đầy đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực. Các cấp ủy Đảng thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với những giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giữ vững niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, luôn chú trọng phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”11, Đảng luôn lãnh đạo hoàn thiện cơ chế, chính sách và các phương thức, hình thức tổ chức cho phù hợp với đặc điểm bối cảnh hiện nay để Nhân dân phát huy đầy đủ quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”12. Bảo đảm để Nhân dân được tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của Nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Tạo điều kiện để người dân phát huy sức sáng tạo, tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì lợi ích cho quốc gia, dân tộc.
Thứ sáu, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng luôn tăng cường lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và nội dung, phương thức hoạt động; phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết Nhân dân tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trên tất cả các lĩnh vực. Qua đó, phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức tự lực, tự cường, ý thức trách nhiệm của toàn thể Nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng vận dụng và phát huy cao độ trong Toàn quốc kháng chiến và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tiếp tục khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc để bảo vệ vững chắc nền độc lập, hòa bình của dân tộc; thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trần Thị Nhẫn // http://mattran.org.vn/
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, tập 8, tr.26.
2. Cương lĩnh của Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam công bố ngày 29/5/1946.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, H, 2011, tr. 65.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr. 27-28.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 244.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 611.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158-159.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2011, tr. 27.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr. 159.
————————————————————-
NHỮNG NGƯỜI KỂ SỬ: CỤ BÀ VÀ DI TÍCH LỊCH SỬ GẮN VỚI NHỮNG NGÀY “TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN”
Người phụ nữ bình dị một lòng theo Đảng, theo Cách mạng
Cụ Nguyễn Thị An sinh năm 1896 và lớn lên ở thôn 5, xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Cụ về làm dâu ở thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm (nay là quận Tây Hồ), Hà Nội. Gia đình cụ Nguyễn Thị An thời đó chăm lo làm ăn, tích cực khai hoang vùng đất màu mỡ phù sa ven sông Hồng, cấy lúa, trồng dâu nuôi tằm. Sản phẩm tơ tằm của gia đình ngày càng được chăm chút, cải tiến dần trở nên nổi tiếng không chỉ ở thủ đô Hà Nội mà còn được thị trường nước ngoài ưa chuộng. Vì thế, gia đình cụ Nguyễn Thị An ngày một khá giả, giàu có.

Với số tiền tích lũy được, gia đình cụ mua thêm nhiều ruộng đất, tậu thêm trâu bò và các vật dụng quý, mua thêm đất xung quanh nhà, tu sửa 7 gian nhà trên, xây thêm ngôi nhà 5 gian để làm nhà ở và tiếp khách. Chồng là Chánh tổng nhưng mất sớm, cụ Nguyễn Thị An dần gánh vác, phát triển cơ nghiệp nhà chồng, một mình tần tảo nuôi 4 người con khôn lớn.
Vào những năm 1941 -1942, bà Trần Thị Sáu là giao thông đặc biệt của Thường vụ Trung ương đến Phú Gia giác ngộ, gây dựng các cơ sở cách mạng, trong đó có gia đình cụ Nguyễn Thị An; kết nối những người có chí hướng, trung thành với cách mạng ở thôn Phú Gia với các cơ sở cách mạng ở An toàn khu Trung ương thành một đường dây liên lạc chặt chẽ, bí mật, thân thiện. Trong đó có những cơ sở cách mạng của những người thân và người ruột thịt của gia đình cụ Nguyễn Thị An. Những cơ sở cách mạng nơi đây đã nuôi giấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng như đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hương…
Bà Công Thị Thu – con của cụ Nguyễn Thị An – lúc đó được mẹ và bà Trần Thị Sáu cho đi cùng tới các cơ sở cách mạng để làm quen. Dần dần, bà Thu được tin tưởng cho đi một mình. Sau này, bà Thu mới biết rằng, mỗi lần đi đến các cơ sở Cách mạng, bà đều được giao mang theo tài liệu của Đảng phục vụ các đồng chí Thường vụ Trung ương chỉ đạo phong trào cách mạng lúc bấy giờ.

Đón “Cụ già Thượng cấp” từ chiến khu Việt Bắc
Đặc biệt, gia đình cụ Nguyễn Thị An còn được giao nhiệm vụ đón “Đồng chí Thượng cấp” (Chủ tịch Hồ Chí Minh) từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô ở và làm việc từ ngày 23-25/8/1945, trước khi vào nội thành Hà Nội. Đây cũng là thời điểm quan trọng chuẩn bị cho thời khắc thiêng liêng: Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; ra mắt Chính phủ lâm thời tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Gia đình vinh dự được đón Bác về thăm
Một năm sau đó, ngày 24/11/1946, gia đình cụ Nguyễn Thị An lại tiếp tục được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm gia đình và làm việc với cán bộ “khu Lãng Bạc” và chính quyền địa phương.
Cũng chính tại ngôi nhà của cụ Nguyễn Thị An, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm việc với các đồng chí cán bộ chủ chốt của địa phương và “khu Lãng Bạc” về kết quả đạt được sau 1 năm giành tự do, độc lập; hỏi thăm về tình hình cuộc sống và làm ăn của nhân dân trong xã, về diệt giặc đói, giặc dốt, về tình hình nam nữ bình quyền… và công tác chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ. Tại buổi làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh hứa sẽ lại về thăm Phú Thượng. Vinh dự tự hào, ngày 31/01/1957, Đảng bộ và nhân dân xã Phú Thượng lần thứ 3 được đón Bác về thăm.

Tiếp tục nuôi giấu cán bộ, động viên các con thoát ly đi kháng chiến
Với tinh thần quyết tâm đi theo Cách mạng, sau lời hiệu triệu “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946, cụ Nguyễn Thị An tiếp tục động viên con cháu tham gia kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là từ khi Chính phủ và Quân đội rút lên Chiến khu Việt Bắc, chính quyền non trẻ của xã phải đi vào hoạt động bí mật. Trong suốt những năm từ 1947-1954, bất chấp sự khủng bố, tra khảo, truy xét của bọn tề nguỵ về việc nuôi giấu cán bộ trước đây, cụ Nguyễn Thị An vẫn bình tĩnh, âm thầm tiếp tục giữ liên lạc với các cán bộ kháng chiến của Thủ đô và tham gia kháng chiến dưới nhiều hình thức: Nuôi dưỡng, tiếp tế, đón tiếp nhiều đoàn cán bộ hoạt động trong vùng “địch hậu”, tổ chức đào hầm ngay trong ngôi nhà và đất vườn, ao để cán bộ trú ẩn, cất giấu tài liệu, súng đạn…
Bản thân bà Công Thị Thu (nhân vật chính trong Chương trình Những người kể sử) cùng 2 anh trai đều thoát ly đi kháng chiến. Anh trai thứ hai là Công Ngọc Thụ đi theo Quân Vệ quốc đoàn và hy sinh tại Chiến khu Việt Bắc. Ban đầu, bà Công Thị Thu tham gia công tác thanh niên, phụ nữ xã, sau đó kết nối làm giao liên cho bộ đội địa phương “Thành Đội”. Đêm đêm, bà cùng anh em du kích trong thôn cùng bộ đội vượt sông Hồng trở về làng đấu tranh chống bọn Việt gian, phản động, tề nguỵ, không cho chúng tự do đàn áp các cơ sở kháng chiến của ta. Đến năm 1951, khi Thành uỷ chuyển hướng hoạt động, bà Công Thị Thu đã chuyển vào nội thành hoạt động tiếp, phục vụ công tác Công vận và làm giao thông cho Thành uỷ Hà Nội đến ngày Thủ đô hoàn toàn giải phóng.

Địa chỉ đỏ – niềm tự hào của Thủ đô
Với sự đóng góp từ những năm đầu tiền khởi nghĩa cho đến 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc và trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, cụ Nguyễn Thị An đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhì; gia đình được tặng Bằng “Gia đình có công với nước”.
Ngôi nhà mang tên cụ Nguyễn Thị An đã được công nhận Di tích lịch sử của Hà Nội năm 2019, nâng lên thành Di tích cấp quốc gia năm 2022 và trở thành địa chỉ đỏ, nơi giáo dục truyền thống ý nghĩa cho các thế hệ nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Bà Công Thị Thu được tặng thưởng: Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng và Danh hiệu “Vì sự nghiệp xây dựng Thủ đô”.
Nhóm PV // https://phunuvietnam.vn/
————————————————————-
Giới thiệu Sách:
THƯ VIỆN TỈNH BÌNH THUẬN XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU MỘT VÀI TÀI LIỆU VỀ NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CÓ TẠI THƯ VIỆN
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị quốc gia sự thật, 2016
- Ký hiệu xếp giá: 959.7041 / N104B
- Mô tả vật lý: 390tr., 24cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.014834
- Tóm tắt: Giới thiệu một số bài viết tiêu biểu về nhân dân Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với ý chí “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”; Nam Bộ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”; từ Nam Bộ kháng chiến đến toàn quốc kháng chiến và những bài học lịch sử
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị quốc gia sự thật, 2016
- Ký hiệu xếp giá: 959.7041 / T406Q
- Mô tả vật lý: 831tr., 27cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.014883
- Tóm tắt: Tập hợp những bài viết, bài tham luận về cả dân tộc đoàn kết tiến hành toàn quốc kháng chiến và toàn quốc kháng chiến với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước hiện nay…
- Thông tin xuất bản: Hà Nội: Mỹ thuật, 2013
- Ký hiệu xếp giá: 959.7041022 / T406Q
- Mô tả vật lý: 56tr., 20cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.020799 ; Phòng Mượn: MVV.027887; MVV.027888
- Tóm tắt: Những sự kiện lịch sử bằng hình ảnh tư liệu về không khí sục sôi, khẩn trương của quân và dân trong những ngày đầu kháng chiến năm 1946
- Tác giả: Vũ Như Khôi
- Thông tin xuất bản: H.: Quân đội nhân dân, 2006
- Ký hiệu xếp giá: 9(V)21 / M460Đ
- Mô tả vật lý: 591tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.009168; DVV.011527; Phòng Mượn: MVV.004890; MVV.008809; MVV.008810
- Tóm tắt: Diễn biến lịch sử kháng chiến chống Pháp trên khắp Nam Bộ, Trung bộ, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và 60 ngày đêm chiến đấu của quân dân Thủ đô Hà Nội mở đầu toàn quốc kháng chiến…
- Thông tin xuất bản: H.: Quân đội nhân dân, 2006
- Ký hiệu xếp giá: 335.4346 / CH500T
- Mô tả vật lý: 333tr., 21cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.009079; Phòng Mượn: MVV.008635; MVV.008636
- Tóm tắt: Diễn biến lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1946. Những văn kiện, bài nói của Bác Hồ về chủ đề củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp…
- Tác giả: Vũ Như Khôi
- Thông tin xuất bản: H.: Công an nhân dân, 2006
- Ký hiệu xếp giá: 9(V)21 / S111M
- Mô tả vật lý: 558tr., 27cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.005710 ; Phòng Mượn: MVL.004557
- Tóm tắt: Toàn quốc kháng chiến. 60 ngày đêm chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội mở đầu toàn quốc kháng chiến. Các văn kiện về toàn quốc kháng chiến.
- Thông tin xuất bản: H: Văn hóa Thông tin, 1997
- Ký hiệu xếp giá: 9(V)2 / N552TH
- Mô tả vật lý: 359tr., 19cm
- Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVN.016883 ; Phòng Mượn: MVN.000149
- Chủ đề: Lịch sử; Kháng chiến; Việt Nam
Views: 3