77 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (19/12/1946 – 19/12/2023)
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(19/12/1946 – 19/12/2023)
- Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) – Bản hùng ca bảo vệ Tổ quốc
- Kỷ niệm 77 năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/2023)
- Toàn quốc kháng chiến – Bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam
- Vang vọng lời hịch non sông
- “Vang mãi lời thề quyết tử” – Kỷ niệm 77 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến
————————————————————————-
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946) – BẢN HÙNG CA BẢO VỆ TỔ QUỐC
Tháng Tám năm 1945, chớp thời cơ “nghìn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc, xóa bỏ ách cai trị của đế quốc phát xít, đồng thời lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945) – Nhà nước công nông đầu tiên Đông Nam Á.
Nhưng ngay sau đó, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hòng khôi phục chế độ cai trị như trước. Trải qua một thời gian chúng ta nhân nhượng để ra sức chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đây là sự kiện quan trọng, là bước chuyển của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam sang thời kỳ mới.
Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) – bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam
Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tiếp có những hành động khiêu khích, công khai mưu đồ xâm lược, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa đối với nước ta. Tháng 11/1946, chúng ngang nhiên đưa lực lượng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường, chiếm một số trụ sở của Chính phủ cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, Nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), ra quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiến. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (viết xong ngày 12/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta ở các tỉnh Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng. Chiến sự diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn.
Tại Thủ đô Hà Nội, khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện. Đó là hiệu lệnh chiến đấu toàn thành, mở đầu kháng chiến toàn quốc. Dù quân ta trang bị vũ khí thô sơ chống lại kẻ địch tinh nhuệ trang bị vũ khí hiện đại, nhưng với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến sĩ ta có sự hỗ trợ tích cực của nhân dân vẫn ngày đêm kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố. Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, nhà bưu điện… diệt nhiều địch, gây hoang mang cho kẻ thù.
Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng đánh giặc cứu nước với ý chí sục sôi, niềm tin tất thắng. Đến tháng 2/1947, khi địch tăng viện phá vòng vây, lực lượng ta được lệnh rút về hậu phương, cuộc chiến đấu trong các đô thị tạm thời kết thúc để chuyển sang giai đoạn chiến đấu mới.
Trải qua gần hai tháng liên tục chiến đấu, quân dân ta giành thắng lợi quan trọng: thực hiện tiêu hao, tiêu diệt, giam chân địch trong thành phố, làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng, vật chất (ta đã vận chuyển được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên liệu ra vùng căn cứ); tranh thủ thời gian tổ chức cho hàng chục vạn nhân dân tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài.
Giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại
Đã 77 năm trôi qua nhưng lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, khẳng định bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946). Trước hết, đó là kết quả từ một quá trình đấu tranh đầy cam go, phức tạp, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trước thử thách ngặt nghèo, mà biểu hiện cụ thể là những quyết sách đúng đắn, sáng tạo vừa linh hoạt, mềm dẻo, nhưng cũng rất kiên quyết.

Kết quả đem lại là chúng ta từng bước loại bỏ bớt kẻ thù, tranh thủ được thời gian chuẩn bị tiềm lực để bước vào kháng chiến. Mặt khác, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến còn thể hiện rõ sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam, sức mạnh ấy được tạo ra từ truyền thống yêu nước nồng nàn kết hợp với chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, nhờ đó mà ngay từ đầu chúng ta đập tan âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài, mở ra thắng lợi đầu tiên trong cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945 – 1975). Bao trùm hơn tất cả, quyết định ấy góp phần khẳng định cho đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc đụng đầu lịch sử với thực dân Pháp.
“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” ra đời cách đây đã 77 năm nhưng ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của nó vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta, đây còn là Cương lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 77 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/2023) là dịp để chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của sự kiện lịch sử trọng đại này. Đặc biệt, những bài học được rút ra từ sự kiện đó, trong thời điểm lịch sử có tính bước ngoặt đối với vận mệnh của dân tộc còn nguyên giá trị. Nó đã, đang và sẽ tiếp tục được vận dụng cũng như thôi thúc, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thời kỳ mới.
Toàn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của Nhân dân Việt Nam trong thế kỷ 20 và để lại nhiều bài học vô cùng quý giá. Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng; tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục những khó khăn, thách thức để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững, tạo tiềm lực to lớn cho đất nước; không ngừng chăm lo củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước…
Cùng với đó, để phát huy tinh thần khát vọng độc lập, tự do, tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc, cả hệ thống chính trị và cán bộ, đảng viên cần tiếp tục sáng tạo, dũng cảm, kiên trì để cùng Nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn trong thời gian tới./.
Đỗ Thoa // https://dangcongsan.vn/
————————————————————————-
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 – 19/12/2023)
Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, chính quyền cách mạng về tay Nhân dân, Nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc mình. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các thuộc địa, làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn.
Trong hoàn cảnh ấy, Nhân dân ta phải cầm vũ khí tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ những thành quả cách mạng và ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào lúc 20 giờ cùng ngày, bằng những loạt đại bác từ pháo đài Láng bắn vào các mục tiêu của địch trong thành phố, quân và dân Thủ đô Hà Nội chính thức mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với tinh thần “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.
Ngày 20/12/1946, sau khi Lời kêu gọi được Đài tiếng nói Việt Nam phát đi, “Mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sỹ”. Nhân dân Thủ đô không quản hy sinh, gian khổ ngày đêm lập những chiến lũy trên đường phố Hà Nội để ngăn cản bước tiến quân thù. Cùng với Hà Nội, quân và dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam, từ Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương… đến Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… đã đồng loạt anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc muôn người như một, chung sức đồng lòng, nhất tề đứng lên cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm với ý chí sục sôi, quyết tâm hy sinh và niềm tin tất thắng.
“Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ chí Minh đã hoạch định đường lối cho cuộc kháng chiến, đó là kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực và lâu dài nhằm giành độc lâp, thống nhất hoàn toàn đất nước. Thực hiện đường lối đó cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Và 30 năm sau, chúng ta đã cắm lá cờ trên nóc dinh độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, đem lại độc lập thống nhất toàn vẹn cho đất nước.
77 năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam hôm nay. Với ý nghĩa lịch sử quan trọng đó, hằng năm, chúng ta lấy ngày 19/12 làm ngày kỷ niệm Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Sông Tranh // http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/
————————————————————————-
TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN – BƯỚC CHUYỂN LỚN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Trải qua một thời gian nhân nhượng, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam. Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhưng không lâu sau ngày tuyên bố độc lập ấy, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
Trải qua một thời gian nhân nhượng, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam. Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết.

Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tiếp có những hành động khiêu khích, công khai mưu đồ xâm lược, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa đối với nước ta. Tháng 11/1946, chúng ngang nhiên đưa lực lượng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường, chiếm một số trụ sở của Chính phủ cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), ra quyết định lịch sử: phát động Toàn quốc kháng chiến. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến. Sáng 20/12/1946, “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!“
Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (viết xong ngày 12/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta ở các tỉnh Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng. Chiến sự diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn. Tại Thủ đô Hà Nội, khoảng 20h ngày 19/12/1946, công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện. Đó là hiệu lệnh chiến đấu toàn thành, mở đầu kháng chiến toàn quốc. Dù quân ta trang bị vũ khí thô sơ chống lại kẻ địch tinh nhuệ trang bị vũ khí hiện đại, nhưng với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến sĩ ta có sự hỗ trợ tích cực của nhân dân vẫn ngày đêm kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố. Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, nhà bưu điện… diệt nhiều địch, gây hoang mang cho kẻ thù.
Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng đánh giặc cứu nước với ý chí sục sôi, niềm tin tất thắng. Đến tháng 2/1947, khi địch tăng viện phá vòng vây, lực lượng ta được lệnh rút về hậu phương, cuộc chiến đấu trong các đô thị tạm thời kết thúc để chuyển sang giai đoạn chiến đấu mới.
Trải qua gần hai tháng liên tục chiến đấu, quân dân ta giành thắng lợi quan trọng: thực hiện tiêu hao, tiêu diệt, giam chân địch trong thành phố, làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng, vật chất (ta đã vận chuyển được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên liệu ra vùng căn cứ); tranh thủ thời gian tổ chức cho hàng chục vạn nhân dân tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài.
Đoàn kết vì khát vọng hòa bình
Đã 77 năm trôi qua nhưng lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, khẳng định bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946). Trước hết, đó là kết quả từ một quá trình đấu tranh đầy cam go, phức tạp, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trước thử thách ngặt nghèo, mà biểu hiện cụ thể là những quyết sách đúng đắn, sáng tạo vừa linh hoạt, mềm dẻo, nhưng cũng rất kiên quyết.
Kết quả đem lại là chúng ta từng bước loại bỏ bớt kẻ thù, tranh thủ được thời gian chuẩn bị tiềm lực để bước vào kháng chiến. Mặt khác, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến còn thể hiện rõ sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam, sức mạnh ấy được tạo ra từ truyền thống yêu nước nồng nàn kết hợp với chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, nhờ đó mà ngay từ đầu chúng ta đập tan âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài, mở ra thắng lợi đầu tiên trong cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975). Bao trùm hơn tất cả, quyết định ấy góp phần khẳng định cho đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc đụng đầu lịch sử với thực dân Pháp.
Trong công cuộc đổi mới, để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình lâu dài của đất nước, tư tưởng “hòa bình” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp lên từ ngày đầu phát động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã luôn soi đường, chỉ lối cho Đảng ta, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta tập trung vào thực hành và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khát vọng hòa bình, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ phá hoại, xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do đất nước ta không chỉ được nuôi dưỡng, hun đúc, phát huy trong mọi tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang ta, mà còn được cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm cụ thể trong xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc và chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
Đến nay, Việt Nam đã cử 789 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại ba phái bộ và trụ sở Liên hợp quốc, trong đó có 782 cán bộ Quân đội và 7 cán bộ Công an. Theo đánh giá của các phái bộ và cơ quan Liên hợp quốc, các sĩ quan Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong thực hiện các nhiệm vụ được giao tại các phái bộ, thể hiện sự chuyên nghiệp, kỷ luật cao; có nhiều sáng tạo; để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với lãnh đạo phái bộ, chỉ huy lực lượng quân sự và đồng nghiệp quốc tế bằng những đóng góp cụ thể, thiết thực, mang tính nhân văn cao. Những cán bộ, chiến sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình tại các phái bộ không những thể hiện được bản lĩnh, năng lực, trách nhiệm của Bộ đội Cụ Hồ mà còn lan tỏa hình ảnh đẹp của Việt Nam đến với bạn bè thế giới, trở thành những “sứ giả hòa bình” của đất nước trong mắt bạn bè năm châu.
“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” ra đời cách đây đã 77 năm nhưng ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của nó vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta, đây còn là Cương lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiền Hạnh // https://cand.com.vn/
————————————————————————-
VANG VỌNG LỜI HỊCH NON SÔNG
“Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!… Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc…”. Những lời hiệu triệu giản dị nhưng hùng hồn, có sức lay động đã thôi thúc cả dân tộc Việt Nam chung sức, đồng lòng, đồng tâm vùng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quyết giữ vững nền độc lập của non sông.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ của nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; phải đối phó với thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt” bủa vây. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực đàm phán hòa bình với Pháp, mong muốn Pháp công nhận một nước Việt Nam độc lập, nhưng mọi cố gắng đều không thành, bởi sự bội ước của thực dân Pháp.
Ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đúng 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, đồng thời quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Đêm ngày 19 tháng 12, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, để đến sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, thông qua Đài Tiếng nói Việt Nam, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến được phát đi khắp cả nước.
“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!…”.
Chỉ bằng hơn 200 từ, nhưng bằng những lời hiệu triệu súc tích, hùng hồn, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là lời non sông, là hiệu lệnh cứu nước trong khoảnh khắc Tổ quốc lâm nguy. Đây là một quyết định lịch sử đúng đắn và kịp thời của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh chúng ta không thể nhân nhượng thực dân Pháp được nữa, bởi nhân nhượng là mất nước; Chính phủ cách mạng lâm thời không thể chần chừ thêm nữa, vì chần chừ sẽ bị địch tấn công tiêu diệt. Dân tộc ta không còn lựa chọn nào khác là phải đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược.
Tại Lời kêu gọi, Bác đã khẳng định “nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình”, “dân tộc ấy đã nhân nhượng”, và bây giờ “buộc phải cầm vũ khí” bởi vì người Pháp quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Lời kêu gọi cũng truyền đi thông điệp cuộc kháng chiến có trường kỳ gian khổ, “gian lao kháng chiến”, nhưng “nhất định thắng lợi”. Cuộc kháng chiến ấy cần sự góp sức của cả đàn ông, đàn bà, không phân biệt người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, “hễ là người Việt Nam thì phải đứng dậy đánh Pháp cứu nước”. Lời kêu gọi tuy ngắn gọn, súc tích, những lời lẽ giản dị, dễ hiểu, nhưng hùng hồn, như một mệnh lệnh, một lời hiệu triệu những trái tim yêu nước phải đứng lên hành động. Lời kêu gọi như truyền thêm lòng tin tới mỗi người dân Việt Nam rằng “thắng lợi nhất định về dân tộc ta”, xóa bỏ mọi khoảng cách tôn giáo, đảng phái, rằng “hễ là người Việt Nam” thì phải đứng lên cứu nước. Lời kêu gọi ấy như một lời hịch cứu nước vang dội non sông, làm rung động cả triệu con tim Việt Nam nhất tề đứng dậy kháng chiến.

Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, nhân dân ta đã đoàn kết chung sức đồng lòng, đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bước vào cuộc trường chinh đầy gian khổ nhưng hết sức vinh quang. Đó là chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp dành thắng lợi oanh liệt mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiếp theo là 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc bằng đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử, thống nhất đất nước, đất nước ta vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả bằng lý luận và thực tiễn, đã thấy rõ được sức mạnh của lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết, từ đó Người khơi gợi lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam, tìm mọi cách tập hợp những tinh thần ấy tạo nên một sức mạnh khổng lồ để chiến thắng mọi kẻ thù to lớn và hung bạo nhất. Đảng ta đã kế thừa bài học về tinh thần yêu nước, sức mạnh đoàn kết dân tộc ấy để kêu gọi toàn dân chung tay thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế.
77 năm đã trôi qua, nhưng tinh thần và Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến vẫn còn vang vọng như hồn thiêng sông núi Việt Nam, thôi thúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Đây là dịp để mỗi người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ hôm nay, nhìn nhận rõ hơn một thời kỳ lịch sử đặc biệt của đất nước trong tình thế hiểm nghèo, tưởng chừng như không thể vượt qua. Khi đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt phát động toàn quốc kháng chiến, khơi dậy và phát huy được tinh thần yêu nước, lòng tự hào và tự tôn dân tộc để toàn dân tộc đứng lên quyết giữ vững nền độc lập mà chúng ta mất bao xương máu mới giành lại được. Ý chí và quyết tâm đó rất cần được phát huy lên một tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay, vì một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, hùng cường; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh./.
Thương Nguyễn // https://dangcongsan.vn/
————————————————————————-
“VANG MÃI LỜI THỀ QUYẾT TỬ” – KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đã phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bên trong, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản hoành hành, bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn công, hòng tiêu diệt chính quyền vừa thành lập.
Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam bộ và Nam Trung bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, Đảng ta, Chính phủ và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tìm mọi cơ hội hòa hoãn, kéo dài thời gian hòa bình nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến có thể không thể tránh khỏi. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới.
Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam. Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm vũ khí đứng lên chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), ra quyết định lịch sử: phát động Toàn quốc kháng chiến.
Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến.
Sáng 20/12/1946, “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam được phát đi khắp cả nước, với nội dung:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” là lời hiệu triệu toàn dân tộc Việt Nam đoàn kết một lòng chống Pháp với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”.
Hưởng ứng Lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước từ già đến trẻ, từ thành thị đến nông thôn, từ miền ngược đến miền xuôi và mọi tầng lớp trong xã hội đã nhất tề đứng lên chống Pháp. Hà Nội là một trong những chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Từ đêm 19/12/1946, quân và dân Thủ đô đã đồng loạt tấn công chủ động, bất ngờ vào các căn cứ của quân Pháp. Với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân dân Thủ đô kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng mái nhà, góc phố, con đường, làm tiêu hao sinh lực địch, giam chân Pháp trong thành phố nhiều ngày để tạo điều kiện cho các cơ quan đầu não, chủ lực kịp thời sơ tán lên chiến khu Việt Bắc một cách an toàn và bước vào giai đoạn trường kỳ kháng chiến vào tháng 3/1947.
Đồng thời, quân và dân cả nước đã đồng loạt anh dũng đứng lên chống Pháp với ý chí căm thù giặc sục sôi, với niềm tin tất thắng.




Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính” trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
77 năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam hôm nay.
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta, mà Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến còn là Cương lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Minh Ngọc // https://www.htv.com.vn/
Views: 3042